


Đón chúng tôi và khoe ngôi nhà mới xây của mình, ông Lê Bé không giấu được niềm vui hiện hữu trong ánh mắt. Có lẽ, ngay cả chính ông cũng không ngờ rằng, ngôi nhà được làm bằng các vật liệu tạm bợ trên mặt sông, chỉ nối với bờ thông qua chiếc cầu ván, kết cấu đơn giản, không gian nhỏ hẹp với nhiều thế hệ gia đình cùng sinh sống trước đây lại thay bằng những bức tường vững chãi, mái nhà kiên cố.
Ông Bé kể, ông không biết rõ khu nhà chồ có từ bao giờ, chỉ biết rằng khi đến nó đã hiển hiện hàng trăm căn nhà trên mặt nước. Những người dân ở nhà chồ đa số là ở Điện Bàn, Hội An, Duy Xuyên... chạy chiến tranh ra lập nghiệp trước năm 1975.
Mỗi gia đình ở khu nhà chồ đều có một câu chuyện riêng, nhưng điểm chung là sự khốn khó, sự bấp bênh trong cả cuộc sống lẫn tương lai. Đứa trẻ nào cũng gầy gò, da cháy nắng, tóc khét mùi gió sông. Chúng lớn lên giữa những mảnh ván cũ, những cây cọc cắm xuống lòng sông, giữa tiếng sóng vỗ vào bờ kè và nỗi lo cơm áo chưa bao giờ nguôi ngoai trong mắt cha mẹ.
Gia đình ông Bé có 3 thế hệ gồm 10 người, sống gần 20 năm trên nhà chồ chỉ rộng chừng 50m2, mưu sinh bằng nghề đánh bắt cá và gánh cá thuê, được bữa nào hay bữa đó. Ngôi nhà chỉ có mấy cây cọc làm trụ, sàn lót bằng gỗ tạp, muốn vào bờ phải đi qua những hộc đá nhấp nhô, đầy nguy hiểm.
“Sống ở nhà chồ khổ lắm, không có nhà vệ sinh, mọi chất thải đều đổ xuống sông, nước sông cũng chính là nước sinh hoạt hằng ngày. Ốm đau, bệnh tật luôn rình rập”, ông Bé nói.

Với gia đình ông Bé, cảm giác lo âu, sợ hãi về tương lai luôn đeo bám ông, nhất là trong những ngày mùa mưa bão, thiên tai.
“Nhà chồ thì đa phần lợp bằng tôn, mà mọi người biết rồi đó, tôn thì mùa hè nóng như thiêu đốt nhưng mùa đông lại lạnh cắt da cắt thịt. Đó là chưa nói đến khi mưa bão quật qua, căn nhà chồ chao đảo như con thuyền nhỏ giữa đại dương. Lúc riều cường, chỉ cần đưa chân xuống là có thể chạm vào mặt nước đục ngầu bên dưới”, ông Bé nhớ lại.
Những năm tháng đó, ông Bé luôn ôm một giấc mơ lớn là có được mái nhà vững chãi trên đất liền, nơi mà cả gia đình có thể ngồi bên nhau dùng bữa cơm mà không phải nơm nớp lo lắng khi mùa mưa bão đến. Nhưng hơn thế nữa, ông mơ con cái mình được đến trường, không phải bám lấy những con sóng mưu sinh như đời cha mẹ.
Giấc mơ ấy, cuối cùng cũng thành hiện thực khi chính quyền thành phố quyết tâm xóa bỏ khu nhà chồ, đưa người dân lên bờ, bố trí tái định cư để họ có cuộc sống ổn định hơn. Ngày dọn về nhà mới, ông Bé nhìn quanh căn nhà vững chãi mà lòng bồi hồi khôn tả. Bao năm chông chênh trên mặt nước, bao đêm trăn trở với tiếng sóng vỗ dưới chân, giờ đây, ông và gia đình đã có một chốn đi về an yên.
Nói đoạn, ông Bé bỗng khựng lại, ánh mắt nhòe đi trong làn nước mắt chực trào. Ký ức những ngày cũ, về người cha, người mẹ đã khuất lại ùa về. Họ gồng gánh cả đời, chắt chiu từng đồng để nuôi ông khôn lớn, nhưng rốt cuộc, lại chẳng kịp chứng kiến ngày gia đình được an cư. Giờ đây, giữa căn nhà kiên cố, bên mâm cơm đủ đầy, ông chỉ ước rằng, niềm hạnh phúc mà mình hằng mong mỏi, đáng lẽ phải đến sớm hơn, khi cha mẹ vẫn còn ở bên.

Cũng như ông Bé, trong ký ức của ông Nguyễn Hữu Hoàng (52 tuổi), hình ảnh khu nhà chồ của dân vạn chài được dựng tạm bợ bên mé sông dọc các phường An Hải Tây, An Hải Bắc và Nại Hiên Đông (quận Sơn Trà) không bao giờ mờ phai trong ông.
Ông nhớ những sáng sớm chạy chân trần trên bờ đá, nhớ những ngày ngồi thu lu trong góc nhà chồ, lắng nghe tiếng mưa rơi trên mái tôn mỏng. Ngày đó, ước mơ đi học là một điều xa vời.
Trẻ con trong khu nhà chồ, đứa nào trên 10 tuổi cũng phải theo cha mẹ mưu sinh. Cái sự nheo nhóc của đám trẻ ấy không chỉ là nỗi khó khăn về vật chất mà còn là những khao khát chưa thành hiện thực: khao khát được học hành đầy đủ, được khám phá thế giới bên ngoài, được vui chơi như những đứa trẻ khác.

Theo ông Hoàng, lũ trẻ nhà chồ đứa nào cũng đen nhẻm, tóc cháy nắng, gió sông quện vào da thịt thành một mùi ngai ngái không lẫn vào đâu được. Phần lớn chúng chẳng có giấy khai sinh, cũng chẳng có cơ hội đặt chân đến trường. Tuổi thơ của chúng gắn liền với những tấm ván chông chênh, những con sóng vỗ mạn nhà, và những buổi rong ruổi theo cha mẹ kiếm sống trên sông.
Mỗi ngày trôi qua, ông Hoàng cũng như lũ trẻ nhà chồ cứ đứng vui đùa trên các hộc đá, nhìn về bờ Tây sông Hàn với những tòa nhà cao tầng, đêm đêm đầy ánh điện mà không thôi mơ về một ngày được đặt chân đến đó.

“Mặc dù cuộc sống ở nhà chồ đầy thử thách, nhưng đối với đứa trẻ, đó cũng là một phần của sự lớn lên. Đây cũng là nơi lưu giữ tình yêu thương, sự gắn bó, và những khoảnh khắc bình yên của một tuổi thơ đầy ắp kỷ niệm của tôi. Thời gian trôi qua, đến tận bây giờ, tôi cũng không nghĩ được có ngày mình được lên bờ, được sống với những gì tuổi thơ mình từng mơ ước”, ông Hoàng nói.

Để có được hành trình “đổi đời” từ sông lên phố của ông Bé, ông Hoàng hay những người dân sống ở nhà chồ là cả sự nỗ lực, ý chí quyết tâm của lãnh đạo thành phố, sự đồng thuận của cộng đồng xã hội thời điểm đó.
Vào năm 1997 - năm Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, thành phố có khoảng 650 nhà chồ, tập trung ở các phường An Hải Tây, An Hải Bắc và Nại Hiên Đông thuộc quận Sơn Trà với hàng chục nghìn hộ lao động nghèo sống tạm bợ trên những căn nhà dọc sông Hàn và vịnh Mân Quang.
Có lẽ không người dân Đà Nẵng nào sống qua những năm 90 của thế kỷ trước lại không biết hai câu vè huyền thoại: “Đứng bên ni Hàn, ngó bên tê Hàn mênh mông bát ngát. Đứng bên tê Hàn, ngó bên ni Hàn phố xá thênh thang”. “Bên ni” – bờ Tây và “bên tê” – bờ Đông sông Hàn đã từng đối lập nhau đến vậy, từ lãnh đạo đến người dân không ai không cảm thấy nhức nhối.

Chính vì thế, ngay trong năm 1997, công cuộc giải tỏa, di dời hàng trăm hộ dân nhà chồ lên vùng đất mới được tiến hành. Với nỗ lực của chính quyền thành phố, trong một thời gian ngắn từ năm 1997-2005, những xóm nhà chồ không còn, đường Bạch Đằng Đông (nay là trục đường Lê Văn Duyệt - Trần Hưng Đạo – Chương Dương) được xây mới. Lần lượt cầu sông Hàn, cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý, cầu Thuận Phước… mọc lên giúp cho ranh giới “bên ni – bên tê” được xóa nhòa, chỉ còn cách nhau những vòng bánh xe.

Xóm nhà chồ nghèo khó ngày ấy giờ đã là công viên vườn dạo dọc bờ Đông sông Hàn, nơi mỗi mùa hè tới lại chào đón hàng triệu du khách đến chiêm ngưỡng lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng, sự kiện độc đáo có “một không hai” tại Việt Nam.

Và khi từng chùm pháo hoa nở rộ trên sông Hàn, thắp sáng bầu trời đêm, những “nhân chứng sống” cho xóm nhà chồ như ông Bé, ông Hoàng lại dắt tay con cháu ra nơi mình từng lênh đênh trên con nước năm xưa để chứng kiến thành phố đẹp lên từng ngày, vang danh khắp bốn phương.
Không dừng lại ở những lễ hội, hạ tầng giao thông khang trang, hiện đại từng ngày đã tô vẽ thêm nét đẹp cho bờ Đông sông Hàn. Cùng với đó, hàng loạt cao ốc mọc lên ven sông, kéo dài ra phía biển giúp đánh thức nguồn lực to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, nguồn lực có thể đã ngủ yên nếu không có những quyết sách táo bạo của lãnh đạo thành phố hơn 20 năm trước.
Dọc con đường Bạch Đằng Đông năm nào giờ đầy rẫy khách sạn cao tầng, trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng…, là một trong những khu vực thu hút du khách đông nhất mối khi đêm xuống.

Năm 2025, hòa cùng dòng chảy của cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đà Nẵng với những đại lộ rực rỡ ánh đèn, những tòa cao ốc vươn mình bên bờ sông Hàn, là minh chứng rõ ràng nhất cho một hành trình đổi thay kỳ diệu. Không còn những căn nhà chồ chênh vênh trên sóng nước, không còn những phận người bấp bênh giữa mưa bão, thay vào đó là những khu dân cư khang trang, nơi trẻ em được đến trường, người lớn có công ăn việc làm ổn định.
Xóa bỏ nhà chồ không chỉ là “giải phóng” một vùng đất mà còn là “giải phóng” những giấc mơ bị kìm hãm bởi nghèo khó. Từ những ngôi nhà tái định cư đầu tiên, từ những cây cầu bắc ngang sông Hàn xóa nhòa khoảng cách giữa "bên ni" và "bên tê", Đà Nẵng đã vươn mình trở thành một đô thị hiện đại, nơi phát triển kinh tế và phát triển con người luôn song hành.

Nhìn lại chặng đường ấy, mỗi người dân từng sống trên sông năm xưa hẳn đều có chung một cảm xúc: Tự hào và biết ơn. Tự hào vì họ đã cùng thành phố vượt qua những ngày gian khó, và biết ơn vì sự quyết tâm của những người lãnh đạo dám nghĩ, dám làm.
Hôm nay, khi những chùm pháo hoa tiếp tục thắp sáng bầu trời Đà Nẵng, đó không chỉ là ánh sáng của lễ hội, mà còn là ánh sáng của một tương lai rực rỡ, nơi giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp đã trở thành hiện thực.