Chuyện những tháp nước

Vào đầu những năm 2000, khi Đà Nẵng bước vào giai đoạn phát triển đô thị mạnh mẽ, nhiều tháp nước dần vắng bóng. Các công trình này từng là một phần quan trọng trong hệ thống cấp nước đô thị, là dấu ấn của một thời kỳ được xem là hiệu quả nhất trong lịch sử cấp nước của Đà Nẵng. Từ thời nhượng địa Tourane cho đến những thập niên đầu sau năm 1975, các tháp nước đã đóng vai trò thiết yếu, góp phần đảm bảo nguồn nước cho đời sống người dân

Những trao đổi đầu tiên về việc cấp nước cho Tourane

Khoảng gần 10 năm sau khi trở thành nhượng địa Tourane thuộc Pháp, năm 1897, Phòng Thương mãi và Canh nông Trung kỳ được thành lập, có trụ sở đóng tại Đà Nẵng. Sau cuộc họp này, Phòng Thương mãi và Canh nông đề nghị Hội đồng thành phố Tourane (Đà Nẵng) đưa vấn đề cấp nước cho đô thị Đà Nẵng vào chương trình nghị sự tại cuộc họp năm 1898 - đây là thời điểm vấn đề cấp nước lần đầu tiên được đề cập tại đô thị Đà Nẵng.

Gần 10 năm sau, vấn đề cấp nước vẫn chưa có chuyển động gì trong khi công tác quy hoạch thành phố đã đạt được những bước tiến nhanh chóng và dân số ngày càng đông. Do đó, tháng 12-1906, Phòng Thương mãi Đà Nẵng chính thức đưa vấn đề nước của Thị xã ra trước Hội đồng tối cao Đông Dương. Tuy nhiên, đề nghị này vẫn chưa được giải quyết theo yêu cầu, đến 15 năm sau (năm 1921), vấn đề này mới được khởi động trở lại.

Ngày 07-6-1921, thành phố Đà Nẵng mở cuộc đấu thầu cung cấp và phân phối năng lượng cho thành phố. Công ty SIPEA - Công ty kỹ nghệ cấp nước và điện của Pháp ở châu Á trúng thầu (có trụ sở tại Đà Nẵng). Tuy vậy, công ty này đã không hoàn thành được việc cung cấp điện và nước cho thành phố. Riêng về điện, đến tháng 7-1922, thị dân Đà Nẵng mới thực sự có ánh sáng điện, nhưng chỉ có trong phạm vi hẹp, chủ yếu thuộc khu phố Tây.

Nói về cấp nước, đến năm 1926, có một phương án có tính chất bộ phận được đề xuất tại cuộc họp ngày 22-02-1926 của Hội đồng Thị chính Đà Nẵng: “Mua máy bơm điện để cung cấp nước cho máy khử trùng tại bệnh viện người bản xứ”.

Theo đó, xây một bể chứa 1.200 lít bảo đảm việc phân phối nước sạch tiệt trùng cho trường học, đội vệ binh, nhà lao... và thu thuế khi cung cấp nước cho sở làm nước đá, các câu lạc bộ và các nơi có yêu cầu. Bể chứa nước này đặt tại bệnh viện, để bệnh viện cung cấp nước, kiểm tra chất lượng nước do bác sĩ của sở y tế thành phố phụ trách.

Như vậy, việc cấp nước sạch cho thành phố được giao trực tiếp cho bệnh viện để đảm bảo chất lượng nguồn nước. Nhưng với bể chứa 1.200 lít thì quá nhỏ bé, thậm chí không đủ đáp ứng nhu cầu nội bộ của bệnh viện; việc cung cấp nước cho trường học, nhà lao, sinh hoạt hằng ngày của người dân vẫn chưa thực hiện được.

Đến năm 1928, dường như không thể chịu đựng được nữa tình trạng thiếu tiện nghi về nước sinh hoạt, một người có tiếng nói đối với chính quyền thuộc địa Pháp lúc bấy giờ, sau khi đi Pháp về, đã viết cho Phòng Thương mãi bày tỏ ý kiến: “25 năm nay ở Đà Nẵng, chính quyền cao cấp thường nói quan tâm vấn đề nước uống, nhưng chẳng thấy gì cả”.

Đến năm 1930, Hội đồng thị chính Đà Nẵng họp và bàn luận về việc thực hiện hệ thống cung cấp nước sạch. Riêng Tòa Đốc lý đề nghị hai giải pháp: dùng suối nước ở báo đảo Tiên Sa hoặc lập hệ thống giếng Layne rồi bơm nước lên tháp nước để phân phối như ở Sài Gòn.

Từ năm 1930 đến nửa đầu những năm 1960, hệ thống cấp nước Đà Nẵng chủ yếu cung cấp nước cho khu vực trung tâm với các giếng khoan và hệ thống đường ống nhỏ bé. Vấn đề cấp nước lúc này rất khiêm tốn, phần lớn người dân dùng giếng bơm, giếng tự đào của gia đình để sinh hoạt.

Tháp nước cầu Đen, quận III Đà Nẵng năm 1965 - 1966

Bước khởi động của nhà máy nước hiện đại

Năm 1965, quân Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng, đánh dấu chính thức về việc tham chiến của Mỹ ở Việt Nam, nhu cầu sử dụng nước của đô thị Đà Nẵng tăng lên nhanh chóng và cấp thiết hơn bao giờ hết, nhưng tại Đà Nẵng hệ thống nhà máy nước chỉ mang tính chất nội bộ của thời kỳ những năm 1930 thời Pháp thuộc.

Trong những năm 1950-1960, đô thị Đà Nẵng theo bản hợp đồng giữa chính quyền Pháp với Công ty thủy điện (CEE), thì công ty này được hưởng quyền đặc nhiệm về sự khai thác và phân phối nước uống trong thị xã Đà Nẵng, có giá trị đến hết năm 1967.

Công ty khai thác và cung cấp nước gồm: hoạt động và tu bổ các cơ sở rút nước, các giếng, các nhà máy phát nước; tu bổ các hệ thống phát nước, các hồ chứa nước; gắn ống nhánh và đồng hồ nước cho tư gia theo giá biểu đã được chấp thuận; cung cấp nhân công gắn ống thoát nước; sửa chữa đồng hồ nước, thông ống nghẹt. Khi có việc, ra lệnh cho công ty ra giá rồi mới tiến hành, rất chậm trễ.

Với tình trạng trên, năm 1967, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 49-SL/CC ngày 18-3-1967 về việc thành lập Nha Thủy cục Đà Nẵng. Nay thiết lập Thủy cục Đà Nẵng, nhằm sản xuất và cung cấp nước uống trong lành và đầy đủ cho thị xã Đà Nẵng và các vùng phụ cận.

Thủy cục Đà Nẵng là cơ quan có tư cách pháp nhân và quyền tự trị về hành chính và tài chính. Từ đó, việc cấp nước cho đô thị Đà Nẵng có chuyển biến mạnh. Nguồn nước mặt tại sông Cẩm Lệ được khai thác xử lý cung cấp cho thành phố qua việc xây dựng các Trạm cấp nước Cầu Đỏ và Trạm cấp nước Sân bay để thay thế nguồn nước ngầm, hệ thống đường ống cấp nước cũng được phát triển thêm, dưới sự quản lý chung của Nha Thủy cục Đà Nẵng.

Tháp nước tại Đà Nẵng trước năm 1975

Phát triển hệ thống cấp nước cho một thành phố dịch vụ

Sau năm 1975, khi thành phố được giải phóng, đất nước thống nhất, hệ thống cấp nước Đà Nẵng được giữ nguyên vẹn như trước đó, chính quyền cách mạng tiếp quản và duy trì hoạt động sản xuất cấp nước, góp phần giữ gìn tình hình an ninh trật tự trong những ngày đầu thành phố mới được giải phóng.

Sau đó, đơn vị quản lý hệ thống cấp nước thành phố được thành lập có tên gọi là Nhà máy nước Đà Nẵng thay thế cho Thủy cục Đà Nẵng của chế độ cũ, công suất cấp nước lúc đó khoảng 12.000 m3/ngày với 3.084 đồng hồ tiêu thụ của khách hàng.

Năm 1979, trước yêu cầu phát triển người dân thành phố cần có nước máy sử dụng, Ban lãnh đạo Nhà máy nước Đà Nẵng lúc đó đã tập trung công tác củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo, mở rộng nâng công suất Trạm cấp nước Cầu Đỏ lên 12.000m3/ngày và Trạm cấp nước Sân Bay lên 10.000m3/ngày. Cùng với cải tạo, mở rộng các trạm cấp nước, hệ thống đường ống cấp nước các loại cũng được thi công lắp đặt, đến năm 1985 tổng số đồng hồ khách hàng là 13.000 chiếc.

Từ sau năm 1990, bộ máy tổ chức của Công ty cũng được củng cố và hoàn thiện, các Trạm cấp nước đổi tên thành các Nhà máy sản xuất nước, các Xí nghiệp được thành lập. Bắt đầu từ năm 2000, các Chi nhánh Cấp nước tại các quận, huyện được ra đời nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu quản lý và giao dịch với khách hàng.

Từ đó về sau, chuyện những tháp nước dần đi đến chấm dứt vai trò lịch sử của mình khi có những công nghệ mới trong việc tăng áp cấp nước cho toàn thành phố Đà Nẵng. Và hình ảnh, ký ức về những tháp nước của thành phố trong suốt hơn nửa thế kỷ từ trở thành một phần lịch sử của thành phố bên sông Hàn.

VÕ HÀ